Theo thống kê của các cơ quan chức năng, các địa phương thì người lao động làm mướn Hiện nay hầu hết là cần lao theo các dự án đầu tư, làm công thuộc lĩnh vực xây dựng, làm mướn ở các đơn vị tư nhân theo dịch vụ của tư nhân, phục vụ các nhà hàng, bán hàng, xe ôm, giúp việc..
Những đối tượng này chính là nguồn lực bổ sung về lao động rất quan yếu cho hoạt động kinh tế và dân sinh nhưng vì không có đủ kỹ năng, hiểu biết chính sách luật pháp lao động để thỏa thuận với người thuê khi thương lượng về thời kì, giá cả, điều kiện việc làm họ thường phải chịu thiệt thòi.
Trường hợp điển hình ở Quảng Ninh: Liên đoàn cần lao tỉnh đã nhận được 50 đơn khiếu nại của người cần lao làm việc tại Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương với nội dung kho than của nhà máy bị sập, chủ thầu bỏ trốn và không thanh toán lương hướng cho 50 cần lao.
Cái khó là 50 lao động này đều là cần lao tự do làm việc theo thời vụ, khi dự làm việc tại Nhà máy nhiệt điện chỉ ký hiệp đồng kinh tế với chủ thầu chứ không có hiệp đồng cần lao và không được hưởng các chế độ BHXH; hơn nữa, họ không phải ký giao kèo trực tiếp với chủ thầu chính thức của dự án Nhiệt điện Mông Dương mà qua đến 4 lượt chủ thầu đảm nhận các phần việc, nên chi các cơ quan quản lý quốc gia về cần lao, tổ chức công đoàn rất khó có thể quản lý, bảo vệ quyền lợi.
Cá nhân người cần lao tự do phải tự bảo vệ mình là chấp hành pháp luật và cẩn trọng trong làm việc.
Tai nạn cần lao chết người không phải là hiếm nhưng khi xảy ra thì chủ dùng lao động sẽ giấu nhẹm mọi chuyện để tránh sự vào cuộc của các cơ quan chức năng và cũng vì miếng cơm manh áo, những lao động này ưng ý sự may rủi, thậm chí đánh đổi cả tính mệnh.
trơ, không biết tìm ai để tham mưu khi gặp khó khăn, kèm theo là những điều kiện làm việc xấu như kéo dài thời giờ làm việc, không được đảm bảo và dễ dàng bị thải hồi, bị chủ lao động bóc lột sức lao động, môi trường độc hại nhưng không có bảo hộ cần lao là những vướng mắc của cần lao tự do.
căn nguyên chính là do lao động tự do không được ký kết hiệp đồng lao động nên mọi tai nạn xảy ra người thuê thường lảng tránh, không chịu nghĩa vụ với người làm thuê, với pháp luật.
hiện nhà nước mới có chính sách về tiền lương, an sinh tầng lớp khác cho nhóm lao động khu vực chính thức, chứ chưa có chính sách nào cho nhóm cần lao tự do.
lao động tự do không được hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN và các vấn đề về an sinh xã hội, môi trường sống, môi trường làm việc rất phức tạp. Những năm gần đây, nhà nước đã thực hiện chính sách BHXH tự nguyện và BHYT toàn dân, nhưng cần lao tự do tham dự rất ít. phần đông do trình độ của họ còn nhiều hạn chế nên chưa thấy hết được lợi. của việc dự các loại bảo hiểm.
Cộng với điều kiện về kinh tế, vật chất còn khó khăn, thu nhập của lao động khu vực này rất thấp, công việc không ổn định trong khi thời gian dự đóng BHXH lại quá dài cũng khiến họ chẳng thể theo đến cùng. Nhiều chế độ chính sách của nhà nước dành cho người lao động cũng không nhắc tới đối tượng này.
Bộ luật An toàn và vệ sinh lao động được Quốc hội phê chuẩn mới chỉ điều chỉnh số cần lao ở khu vực chính thức. Số cần lao thuộc diện cần lao tự do chiếm số lượng lớn trong hệ thống thị trường cần lao của nước ta đã được các đại biểu Quốc hội quan tâm yêu cầu đưa vào luật.
thời kì qua, nhằm tập trung cần lao tự do vào một tổ chức để dễ quản lý và bảo vệ quyền lợi cho họ. bây chừ, công đoàn các cấp cũng đang tích cực thành lập các nghiệp đoàn, tập hợp lao động tự do cùng hoạt động chung một lĩnh vực, ngành nghề với nhau vào một nghiệp đoàn để tiện quản lý và bảo vệ.
Tuy nhiên, về quản lý mặt nhà nước, cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý đối với cần lao tự do; tỉnh cũng cần có chính sách quan tâm giải quyết việc làm trên địa bàn, gắn đào tạo với cung cấp cần lao.
Để giải quyết các vấn đề an sinh từng lớp, an ninh trật tự trên địa bàn. nhà nước cần có các chính sách nhằm kết hợp linh hoạt và bảo vệ cần lao khu vực kinh tế phi chính thức và việc làm phi chính thức; tạo điều kiện hơn nữa về đất đai cho doanh nghiệp địa phương để mở rộng sản xuất, thu hút lao động tại chỗ, đào tạo nghề cho người cần lao.
Nên chăng cần có sự dìm chính thức loại hình cần lao tự do này bằng việc xây dựng các chính sách liên tưởng đến quyền lợi của họ. Sự nhận và hợp pháp hóa loại hình cần lao phi chính thức này là rất cấp thiết để xúc tiến sự phát triển của đối tượng cần lao khu vực tự do.
Qua đó cần có những biện pháp bảo vệ và tổ chức đứng ra đại diện cho lực lượng cần lao tự do đang ngày càng phát triển; có những biện pháp tạo điều kiện để họ dự các loại hình bảo hiểm. Đặc biệt là chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm tầng lớp mới lấp đầy khoảng trống an sinh từng lớp.
Một công nhân tâm tư với chúng tôi: “Công việc của cần lao tự do rất nhiều việc hiểm, vất vả, ráo mồ hôi cạn đồng tiền. Đã 10 năm trong nghề, từng làm mướn cho nhiều chủ thầu, xây nhiều công trình nhưng tôi chưa hề được trang bị bảo hộ lao động, thậm chí thi công cả các tòa nhà cao tầng và cũng không hề được ký hiệp đồng cần lao.
Do không có giao kèo cần lao, không được tham gia BHXH nên khi gặp tai nạn lao động chúng tôi không được hưởng bất cứ chế độ gì. Tiền nằm viện, thuốc men chủ yếu là thương thảo với chủ thầu, người tốt thì tương trợ cho được chút còn không thì cũng chẳng có gì, thậm chí tai nạn không làm được việc họ sa thải luôn.
Có những công trình thẳng phải làm hơn 10 tiếng/ngày, vì chủ nhà yêu cầu phải hoàn tất sớm nhưng tiền lương vẫn chỉ tính khoán vài trăm ngàn đồng ngày công, nghỉ làm thì nghỉ ăn.
Thế thì làm gì để người lao động tự do tự bảo vệ mình? Vấn đề đề được đặt ra là: Trước hết luật An toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) phải được diễn tả như các đại biểu Quốc hội bàn thảo: Các đại biểu đều đánh giá cao việc hấp thụ chỉnh lý của Ban soạn thảo và dự thảo luật đã đầy đủ, bao quát hơn.
Trong phiên bàn bạc, nội dung việc mở mang đối tượng ứng dụng đối với quờ quạng người cần lao được nhiều đại biểu cho ý kiến. Các đại biểu Quốc hội nhất trí với việc mở rộng đối tượng vận dụng đối với quơ người cần lao và đề nghị quy định một số chính sách cụ thể hơn về ATVSLĐ đối với khu vực không có quan hệ cần lao; một số quan điểm băn khoăn về tính khả thi của chính sách ATVSLĐ đối với khu vực không có quan hệ lao động, đề nghị làm rõ vai trò tương trợ của quốc gia, nguồn lực thực thi chính sách.
Quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp xã trong việc thống kê, bẩm người thuê cần lao làm việc như thế nào, có giao kèo cần lao hay không? Có bảo đảm an toàn cần lao để bảo đảm tính khả thi?
Cá nhân người cần lao tự do phải tự bảo vệ mình là chấp hành pháp luật và cẩn trọng trong làm việc. Nếu làm mướn cho chủ cần lao thì đề nghị với người sử dụng cần lao phải ký hiệp đồng lao động, ít nhất cũng phải đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, nhất là khâu bảo hộ lao động và bảo hiểm tai nạn cần lao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét